Thổ tam thất (Tam thất nam)
Thuộc họ cúc Asteraceae (Compositae).
A. Mô tả cây
Cây mọc thẳng đứng nhẵn, có rễ củ tròn, mẫm. Lá mọc ở gốc, hình bầu dục thuôn dài, đầu tù, phía gốc lá hẹp lại gần như nguyên hay lượn sóng hoặc sẻ lông chim. Cụm hoa hình đầu vàng nhạt, 1-5 mọc thành ngù ở ngọn. Tổng bao có lá bắc phía ngoài 4mm, phía trong 10mm. Quả bế trụ, trên đỉnh và gốc có một đĩa, dài 2,5mm.
B. Phan bố, thu hái và chế biến
Mọc hoang dại ở nhiều tỉnh nước ta, một số nơi trồng với tên thổ tam thất, nam bạch truật,bạch truật nam. Chủ yếu người ta đào lấy củ, rửa sạch đất cát, cắt bỏ rễ con rồi phơi hay sây khô hoặc thài mỏng phơi hay sấy khô. Một số nơi dùng lá tươi làm thuốc.
C. Thành phần hóa học
Chưa thấy tài liệu nghiên cứu.
D. Công dụng và liều dùng
Rễ củ thái mỏng phơi hay sấy khô tán nhỏ sắc uống cho phụ nữ mới sinh nở, làm thuốc bổ và điều kinh. Người ta còn dùng để chữa sốt. Ngày dùng 6-12g.
Lá giã nát đắp lên các mụn nhọt cho tan. Nước sắc lá dùng để chữa đau họng.
Chú thich:
Rẽ củ cây này thường được dùng với tên tam thất hay bạch truật. Sự thực tam thất lá rễ củ của cây Panax pseudoginseneng thuộc họ Ngũ gia bì Araliaceae có mọc ở những vùng núi cao lạnh ở nước ta; bạch truật là củ của cây bạch truật Atractylodes macrocephala Koidz, mới di thực được nhưng chưa phát triển lớn, do đó hiện ta còn phải nhập của nước ngoài.
Trong nhân dân còn dùng với tên tam thất: củ của những cây Stahlianthus thorelli Gagnep (tam thất nam) và cây Kaempferia rotunda L. (ngải máu) đều thuộc họ Gừng Zingiberaceae. Đáng chú ý là cây tam thất gừng được nhân dân miền Nam Trung Quốc cũng dùng với tên Khương tam thât (tam thất gừng) để chữa đau xương, nôn ra máu, kinh nguyệt quá nhiều (ngày dùng 6-10g dưới dạng sắc hay ngâm rượu).
Lời bình: Mình thì thấy loài cây này cho dáng cây và hoa đều đẹp (Như là địa lan vậy) và rất hợp với khí hậu troh bư nên tha về trồng thôi. Hihi
Bình luận
Chưa có bình luận nào!
Phản hồi
Bình luận từ Facebook